Hàm là một khối lệnh được thực hiện khi nó được gọi từ một điểm khác của chương trình. Dạng thức của nó như sau:
type name ( argument1, argument2, ...) statement
trong
đó:
type là kiểu dữ
liệu được trả về của hàm
name là tên gọi
của hàm.
arguments là các
tham số (có nhiều bao nhiêu cũng được tuỳ theo nhu cầu). Một tham số bao gồm
tên kiểu dữ liệu sau đó là tên của tham số giống như khi khai báo biến (ví dụ int x) và đóng vai trò bên trong hàm như
bất kì biến nào khác. Chúng dùng để truyền tham số cho hàm khi nó được gọi. Các
tham số khác nhau được ngăn cách bởi các dấu phẩy.
statement là thân
của hàm. Nó có thể là một lệnh đơn hay một khối lệnh.
Dưới đây là ví dụ đầu tiên về hàm:
// function example #include <iostream.h> int addition (int a, int b) { int r; r=a+b; return (r); } int main () { int z; z = addition (5,3); cout << "The result is " << z; return 0; } |
The result is 8 |
Để có thể hiểu được đoạn mã này, trước hết hãy nhớ lại những điều đã nói ở
bài đầu tiên: một chương trình C++ luôn bắt đầu thực hiện từ hàm main. Vì vậy chúng ta bắt đầu từ đây.
Chúng ta có thể thấy hàm main
bắt đầu bằng việc khai báo biến z kiểu int.
Ngay sau đó là một lời gọi tới hàm addition.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy sự tương tự giữa cấu trúc của lời gọi hàm với khai báo
của hàm:
Các
tham số có vai trò thật rõ ràng. Bên trong hàm main chúng ta gọi hàm addition và truyền hai giá trị: 5 và 3 tương ứng với hai tham số int a và int b được khai báo cho hàm addition.
Vào thời điểm hàm được gọi từ main,
quyền điều khiển được chuyển sang cho hàm addition.
Giá trị của c hai tham số (5
và 3) được copy sang hai
biến cục bộ int a và int b bên trong hàm.
Dòng lệnh sau:
return (r);
kết
thúc hàm addition, và trả
lại quyền điều khiển cho hàm nào đã gọi nó (main)
và tiếp tục chương trình ở cái điểm mà nó bị ngắt bởi lời gọi đến addition. Nhưng thêm vào đó, giá trị
được dùng với lệnh return
(r) chính là giá trị được
trả về của hàm.\
Giá
trị trả về bởi một hàm chính là giá trị của hàm khi nó được tính toán. Vì vậy
biến z sẽ có có giá trị
được trả về bởi addition (5, 3),
đó là 8.
Phạm vi hoạt động của các
biến [nhắc lại] Bạn cần nhớ rằng phạm vi hoạt động của các biến khai báo trong một hàm hay
bất kì một khối lệnh nào khác chỉ là hàm đó hay khối lệnh đó và không thể sử
dụng bên ngoài chúng. Ví dụ, trong chương trình ví dụ trên, bạn không thể sử
dụng trực tiếp các biến a,
b hay r trong hàm main vì chúng là các biến cục bộ của
hàm addition. Thêm vào
đó bạn cũng không thể sử dụng biến z
trực tiếp bên trong hàm addition
vì nó làm biến cục bộ của hàm main.
Tuy nhiên bạn có thể khai báo các biến toàn cục để có thể sử dụng chúng ở
bất kì đâu, bên trong hay bên ngoài bất kì hàm nào. Để làm việc này bạn cần
khai báo chúng bên ngoài mọi hàm hay các khối lệnh, có nghĩa là ngay trong
thân chương trình. |
Đây là một ví dụ khác về hàm:
// function example #include <iostream.h> int subtraction (int a, int b) { int r; r=a-b; return (r); } int main () { int x=5, y=3, z; z = subtraction (7,2); cout << "The first result is " << z << '\n'; cout << "The second result is " << subtraction (7,2) << '\n'; cout << "The third result is " << subtraction (x,y) << '\n'; z= 4 + subtraction (x,y); cout << "The fourth result is " << z << '\n'; return 0; } |
The first result is 5 |
Trong trường hợp này chúng ta tạo ra hàm subtraction.
Chức năng của hàm này là lấy hiệu của hai tham số rồi trả về kết quả.
Tuy nhiên, nếu phân tích hàm main
các bạn sẽ thấy chương trình đã vài lần gọi đến hàm subtraction. Tôi đã sử dụng vài cách
gọi khác nhau để các bạn thấy các cách khác nhau mà một hàm có thể được gọi.
Để có hiểu cặn kẽ ví dụ này bạn cần nhớ rằng một lời gọi đến một hàm có thể
hoàn toàn được thay thế bởi giá trị của nó. Ví dụ trong lệnh gọi hàm đầu tiên :
z = subtraction (7,2);
cout << "The first result is " << z;
Nếu
chúng ta thay lời gọi hàm bằng giá trị của nó (đó là 5), chúng ta sẽ có:
z = 5;
cout << "The first result is " << z;
Tương tự như vậy
cout <<
"The second result is " << subtraction (7,2);
cũng
cho kết quả giống như hai dòng lệnh trên nhưng trong trường hợp này chúng ta
gọi hàm subtraction trực tiếp
như là một tham số của cout.
Chúng ta cũng có thể viết:
cout << "The second
result is " << 5;
vì 5 là kết quả của subtraction (7,2).
Còn với lệnh
cout << "The third
result is " << subtraction (x,y);
Điều
mới mẻ duy nhất ở đây là các tham số của subtraction
là các biến thay vì các hằng. Điều này là hoàn toàn hợp lệ. Trong trường hợp
này giá trị được truyền cho hàm subtraction
là giá trị của x
and y.
Trường hợp thứ tư cũng hoàn toàn tương tự. Thay vì viết
z = 4 + subtraction (x,y);
chúng
ta có thể viết:
z = subtraction (x,y) + 4;
cũng
hoàn toàn cho kết quả tương đương. Chú ý rằng dấu chấm phẩy được đặt ở cuối
biểu thức chứ không cần thiết phải đặt ngay sau lời gọi hàm.
Các hàm không kiểu. Cách sử dụng void.
Nếu
bạn còn nhớ cú pháp của một lời khai báo hàm:
type name ( argument1, argument2 ...) statement
bạn
sẽ thấy rõ ràng rằng nó bắt đầu với một tên kiểu, đó là kiểu dữ liệu sẽ được
hàm trả về bởi lệnh return.
Nhưng nếu chúng ta không muốn trả về giá trị nào thì sao ?
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta muốn tạo ra một hàm chỉ để hiển thị một thông
báo lên màn hình. Nó không cần trả về một giá trị nào cả, hơn nữa cũng không
cần nhận tham số nào hết. Vì vậy người ta đã nghĩ ra kiểu dữ liệu void trong ngôn ngữ C. Hãy xem xét
chương trình sau:
// void function example #include <iostream.h> void dummyfunction (void) { cout << "I'm a function!"; } int main () { dummyfunction (); return 0; } |
I'm a function! |
Từ khoá void trong phần
danh sách tham số có nghĩa là hàm này không nhận một tham số nào. Tuy nhiên
trong C++ không cần thiết phải sử dụng void
để làm điều này. Bạn chỉ đơn giản sử dụng cặp ngoặc đơn ( ) là xong.
Bởi vì hàm của chúng ta không có một tham số nào, vì vậy lời gọi hàm dummyfunction sẽ là :
dummyfunction ();
style="BORDER-RIGHT: medium none; PADDING-RIGHT: 0in;
BORDER-TOP: medium none; PADDING-LEFT: 0in; PADDING-BOTTOM: 0in; BORDER-LEFT:
medium none; PADDING-TOP: 0in; BORDER-BOTTOM: windowtext 3pt solid">
Hai dấu ngoặc đơn là cần thiết để cho
trình dịch hiểu đó là một lời gọi hàm chứ không phải là một tên biến hay bất kì
dấu hiệu nào khác.
Truyền tham số theo tham số giá trị hay tham số biến.
Cho
đến nay, trong tất cả các hàm chúng ta đã biết, tất cả các tham số truyền cho
hàm đều được truyền theo giá trị. Điều này có nghĩa là khi chúng ta gọi
hàm với các tham số, những gì chúng ta truyền cho hàm là các giá trị chứ
không phải bản thân các biến. Ví dụ, giả sử chúng ta gọi hàm addition như sau:
int x=5, y=3, z;
z = addition ( x , y );
Trong
trường hợp này khi chúng ta gọi hàm addition
thì các giá trị 5 and 3 được truyền cho hàm, không phải là
bản thân các biến.
Đến đây các bạn có thể hỏi tôi: Như vậy thì sao, có ảnh hưởng gì đâu ? Điều
đáng nói ở đây là khi các bạn thay đổi giá trị của các biến a hay b bên trong hàm thì các biến x và y vẫn không thay đổi vì chúng đâu có được truyền cho
hàm chỉ có giá trị của chúng được truyền mà thôi.
Hãy xét trường hợp bạn cần thao tác với một biến ngoài ở bên trong một hàm.
Vì vậy bạn sẽ phải truyền tham số dưới dạng tham số biến như ở trong hàm duplicate trong ví dụ dưới đây:
// passing parameters by reference #include <iostream.h> void duplicate (int& a, int& b, int& c) { a*=2; b*=2; c*=2; } int main () { int x=1, y=3, z=7; duplicate (x, y, z); cout << "x=" << x << ", y=" << y << ", z=" << z; return 0; } |
x=2, y=6, z=14 |
Điều đầu tiên làm bạn chú ý là trong khai báo của duplicate theo sau tên kiểu của mỗi
tham số đều là dấu và (&),
để báo hiệu rằng các tham số này được truyền theo tham số biến chứ không phải
tham số giá trị.
Khi truyền tham số dưới dạng tham số biến chúng ta đang truyền bản thân biến
đó và bất kì sự thay đổi nào mà chúng ta thực hiện với tham số đó bên trong hàm
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến biến đó.
Trong ví dụ trên, chúng ta đã liên kết a,
b và c với các tham số khi gọi hàm (x, y
và z) và mọi sự thay đổi
với a bên trong hàm sẽ
ảnh hưởng đến giá trị của x
và hoàn toàn tương tự với b
và y, c và z.
Kiểu
khai báo tham số theo dạng tham số biến sử dụng dấu và (&) chỉ có trong C++. Trong ngôn
ngữ C chúng ta phải sử dụng con trỏ để làm việc tương tự như thế. |
Truyền tham số dưới dạng tham số biến cho phép một hàm trả về nhiều hơn một
giá trị. Ví dụ, đây là một hàm trả về số liền trước và liền sau của tham số đầu
tiên.
// more than one returning value #include <iostream.h> void prevnext (int x, int& prev, int& next) { prev = x-1; next = x+1; } int main () { int x=100, y, z; prevnext (x, y, z); cout << "Previous=" << y << ", Next=" << z; return 0; } |
Previous=99, Next=101 |
Giá trị mặc định của tham số.
Khi
định nghĩa một hàm chúng ta có thể chỉ định những giá trị mặc định sẽ được
truyền cho các đối số trong trường hợp chúng bị bỏ qua khi hàm được gọi. Để làm
việc này đơn giản chỉ cần gán một giá trị cho đối số khi khai báo hàm. Nếu giá
trị của tham số đó vẫn được chỉ định khi gọi hàm thì giá trị mặc định sẽ bị bỏ
qua. Ví dụ:
// default values in functions #include <iostream.h> int divide (int a, int b=2) { int r; r=a/b; return (r); } int main () { cout << divide (12); cout << endl; cout << divide (20,4); return 0; } |
6 |
Nhưng chúng ta thấy trong thân chương trình, có hai lời gọi hàm divide. Trong lệnh đầu tiên:
divide (12)
chúng
ta chỉ dùng một tham số nhưng hàm divide
cho phép đến hai. Bởi vậy hàm divide
sẽ tự cho tham số thứ hai giá trị bằng 2
vì đó là giá trị mặc định của nó (chú ý phần khai báo hàm được kết thúc bởi int b=2). Vì vậy kết quả sẽ là 6
(12/2).
Trong lệnh thứ hai:
divide (20,4)
có
hai tham số, bởi vậy giá trị mặc định sẽ được bỏ qua. Kết quả của hàm sẽ là 5
(20/4).
Quá tải các hàm.
Hai
hàm có thể có cũng tên nếu khai báo tham số của chúng khác nhau, điều này có
nghĩa là bạn có thể đặt cùng một tên cho nhiều hàm nếu chúng có số tham số khác
nhau hay kiểu dữ liệu của các tham số khác nhau (hay thậm chí là kiểu dữ liệu
trả về khác nhau). Ví dụ:
// overloaded function #include <iostream.h> int divide (int a, int b) { return (a/b); } float divide (float a, float b) { return (a/b); } int main () { int x=5,y=2; float n=5.0,m=2.0; cout << divide (x,y); cout << "\n"; cout << divide (n,m); return 0; } |
2 |
Trong ví dụ này chúng ta định nghĩa hai hàm có cùng tên nhưng một hàm dùng
hai tham số kiểu int và
hàm còn lại dùng kiểu float.
Trình biên dịch sẽ biết cần phải gọi hàm nào bằng cách phân tích kiểu tham số
khi hàm được gọi.
Để đơn giản tôi viết cả hai hàm đều có mã lệnh như nhau nhưng điều này không
bắt buộc. Bạn có thể xây dựng hai hàm có cùng tên nhưng hoạt động hoàn toàn
khác nhau.
Các hàm inline.
Chỉ
thị inline có thể được đặt trước khao báo của một hàm để chỉ rõ rằng lời
gọi hàm sẽ được thay thế bằng mã lệnh của hàm khi chương trình được dịch. Việc
này tương đương với việc khai báo một macro, lợi ích của nó chỉ thể hiện với
các hàm rất ngắn, tốc độ chạy chương trình sẽ được cải thiện vì nó không phải
gọi một thủ tục con.
Cấu trúc của nó như sau:
inline type name ( arguments
... ) { instructions ... }
lời gọi hàm cũng như bất kì một hàm nào khác. Không cần thiết phải đặt từ khoá inline trong lệnh gọi, chỉ cần trong
lời khai báo hàm là đủ.